Chương XIV
MƯỜI NĂM ĐÁNH QUÂN TÀU (1418-1427) 1. Lê Lợi (鯬 利) khởi nghĩa ở Lam Sơn: Lam Sơn ruộng núi muôn bề … Lê Lợi giàu có bằng nghề ruộng nông. Giúp người hào kiệt lưu vong Người nghèo, kẻ khó những mong được về.
Nhà Minh dụ dỗ chán chê Lợi thà giữ tiếng, chẳng về với Minh. Truyền Hịch, giặc giết sinh linh Dựng cờ khởi nghĩa xưng Bình Định Vương.
Thế thiên hành đạo lẽ thường Đánh nhau vài trận đã tường trí cao. Khởi đầu lương cạn, gian lao Thế cô sức yếu rút vào Chí Linh.
2. Về Chí Linh lần thứ nhất: Lê Lợi bị giặc phục binh Vợ con để chúng mặc tình lý lao.
3. Về Chí Linh lần thứ hai: Lần hai bị bắt suýt xao Lê Lai phải đổi áo bào cứu Vương. Liều mình cứu chúa can trường Đem thân Kỷ Tín mà nhường Hán Cao.
4. Bình Định Vương về đóng Lư Sơn: Lê Lợi cầu cứu Ai Lao Thu tàn quân lại tiến vào Lư Sơn. Dưỡng thanh thế, đánh trả hờn Phục binh thẳng trớn mà vờn Lỗi Giang. Gặp ngay Nguyễn Trãi giữa đàng Dâng “Bình Ngô sách” luận bàn chuyện quân.
6. Nguyễn Trãi 阮 廌: Cháu ngoại Nguyên Đán nhà Trần Cùng Trần Nguyên Hãn hai thân một cành. Con bảng nhỡn Nguyễn Phi Khanh Bị nhà Minh bắt về thành Kim Lăng.
Nam Quan ải cũ truyền rằng: Nguyễn Trãi níu áo, chùng chằng, lệ rơi. Phi Khanh nghĩa khí mấy lời: “Thù cha, nợ nước, con thời nhớ cho”.
Quay về, Nguyễn Trãi đắn đo Đêm ngày viết những câu hò nhặt khoan. “Bình Ngô” kế sách vẹn toàn Đêm dâng Lê Lợi cho tròn hiếu nhân.
7. Bình Định Vương phá quân Trần Trí: Trần Trí mang mấy vạn quân Vậy đồn Ba Lậm, hậu sân có Lào. Lê Lợi phục sẵn đánh vào Quân Minh bỏ chạy, quân Lào kéo sang. Lầm mưu tưởng địch đã hàng Lê Thạch tử trận, giặc càn tới chân.
8. Về Chí Linh lần thứ ba: Trận đầu thắng bại đã phân Chí Linh ở tạm đến lần thứ ba. Quân binh đói chỉ còn da Ăn cả voi ngựa, may ra, sống còn!
Hết lương nhưng ý chẳng mòn Gan vàng thử lửa hóa còn trí mưu! Lê Trăn thương thuyết “cương nhu” Hòa hảo cùng với quân thù, dưỡng binh.
9. Bình Định Vương hết lương phải hòa với giặc: Quan Minh mệt mỏi, thuận tình Lương trao, bạc ném ra hình thiện chung. Trần Trí, Sơn Thọ sinh lung Bắt Lê Trăn ngỡ Lợi dùng kế gian. Biết giặc nghi hoặc, vội vàng Tuyệt giao, Lê Lợi về đàng Lư Sơn.
10. Bình Định Vương lấy đất Nghệ An: Quân binh thế đã mạnh hơn Giáp Thìn, quân tiến chập chờn Nghệ An. Nhữ Hốt, Phương Chính hồn tan Trà Long chiếm lại, Ba Căng lấy về.
Vua Minh nhận sớ, bất ngờ Vội truyền chiếu chỉ hẹn giờ phải xong. Trần Trí, Phương Chính sợ gông Xua binh thủy bộ trong hòng đánh ra.
Đinh Liệt ra giữ Đỗ Gia Bắt Chu Kiệt cũng không tha Hoàng Thành. Trần Trí khiếp vía trốn nhanh Lý An hoảng hốt thủ thành, tính sau.
11. Vây thành Tây Đô: Đinh Lễ vây đánh Diễn Châu Đuổi Trương Hùng chạy, lương thâu lính dùng. Lưu Nhân, Lê Sát hợp cùng Đinh Lễ lại trổ sức sung hạ thành. Tây Đô thất thủ đã đành Tân Bình, Thuận Hóa cũng dành tới tay!
12. Lấy Tân Bình và Thuận Hóa: Cướp lương, Đinh Lễ phủ vây Nguyên Hãn, Lê Nổ… đều tay tướng trời. ”Đại Thiên Hành Hóa” ra đời Sức như bão nổi bù thời thế cô!
13. Quân Bình Định Vương tiến ra Đông Đô: Tiến quân dần đến Đông Đô Uy danh lừng lẫy, nghiệp đồ đã cao. TUyên Quang chặn cửa ra vào Vân Nam binh cứu đợt nào cũng tan.
Nguyễn Xí binh thẳng Đông Quan Trần Trí chống giữ chờ đàng viện binh. Lý Triện, Văn Xảo thông minh Chia quân hai ngã phá binh viện vào.
Nhận thư Thái Phúc mật trao Phương Chính vội vã đi vào Đông Quan. Thái Phúc ở lại Nghệ An Lê Bôi, Lê Thận, Lê Ngân đánh ào.
Nghiêm hình, kỷ luật khá cao Người theo đầu phục vái chào nghĩa binh. Đông Đô, thủ chắc như đinh Lê Lợi hạ lệnh quân mình rút mau.
14. Trận Tụy Động: Vương Thông thất thế: Bị thua mấy trận phủ đầu Quân Minh khiếp sợ vội cầu cứu binh. Vương Thông sắp sẵn lộ trình Năm vạn binh mã hợm mình kéo sang. Trần Tín rớt mão, rụng gan Phương Chính thất trận, xung hàng lính công.
Nhà Minh đã bớt cuồng ngông Khẩn sai thống lĩnh Vương Thông thế quyền. Lý Triệu thua, thắng liên miên Lý Lượng, Trần Hiệp tới phiên… chịu sầu.
Quân Minh như rắn mất đầu Tranh nhau dẫm đạp qua cầu, thảm thê! Mã Kỳ, Phương Chính quăng cờ Cùng Vương Thông kéo nhau về Đông Quan.
15. Vây thành Đông Đô: Người theo Vương có hàng ngàn Trẻ già, hào kiệt vội vàng nhập quân. Lê Lợi giảng giải nghĩa nhân Anh tài hữu dụng thì thân được dùng. Đông Đô chia lại bốn vùng Đông Tây Nam Bắc đạo, chung sống còn.
16. Vương Thông xin hòa lần thứ nhất: Bấy giờ, Thông quá kinh hoàng Muốn bãi binh, ngại không còn tiếng chi! Liền dùng “sách cũ” một khi: “Ai con cháu họ Trần, thì mới Vua”.
Bình Định Vương nuốt chanh chua Mở lòng trắc ẩn mà mua lấy tình. Chẳng ngờ, giặc lại trớ trinh: Mặt ngoài hòa thuận, trong mình đặt chông.
Số là phản nước Trần Phong Với Lương Nhữ Hốt sợ “gông” nếu hòa. Lấy gương Ô Mã ngày qua Giữa dòng bị cọc, hù hà Vương Thông.
17. Bình Định Vương đóng quân ở Bồ Đề Bình Định Vương đã đề phòng Bắt thằng thư tín, ”niêm phong” Bồ Đề. Nghệ An, Thái Phúc não nề Diễn Châu, Tiết Tự, thất cơ, phải hàng.
Đánh đâu, thắng đó dễ dàng Lại vì khinh xuất, địch càn Từ Liêm. Thanh Trì, Phù Liệt mất thêm Triện, Lễ bị giặc lẻn đêm, giết dần.
18. Bình Định Vương đặt pháp luật để trị quân dân: Lê Lợi ra “kỷ luật quân” Phạm ba điều cấm, bất phân, gia hình: “Gian dâm, khinh mạn, vô tình Phạm nhằm tội ấy, dứt tình, chẳng tha”.
Mười điều kỷ luật tướng gia: “Ồn ào, đặt chuyện để mà lính kinh. Ra trận, cờ phất, chùng chình Phòng không gìn giữ, nghe chiêng chẳng lùi.
Lo vợ con, việc binh lười Mập mờ sổ, lấy tiền người, ác dâm… Theo bụng yêu ghét để lầm Phạm điều ấy, chém! Khắc tâm mọi ngày”.
Quân đi, dân kính phục thay Quân về, người vẫy cờ bay đón mừng.
19. Trận Chi Lăng: Liễu Thăng tử trận: Chi Lăng chiến thắng vang lừng Liễu Thăng bị mắc trong rừng núi dao. Đầu rơi tại Mã Pha Đao Lương Minh bị chém khi lao trận tiền.
Lý Khánh khiếp, phải tự quyên Hoàng Thúc, Thôi Tụ vội liền tháo thân. Tướng Trần Nguyên Hãn… chặn chân Cướp đường lương thực, “rút gân” lũ giòi.
Tướng nhà Lê: Vấn, Xí, Khôi Đêm quân thiết đội vây ngoài, bủa trong. Thôi Tụ, Hoàng Phúc vội… dông Quan binh bắt lại, chẳng hòng thoát ra.
20. Vương Thông xin hòa lần thứ hai: Mộc Thạnh hoảng hốt chạy xa Vương Thông kinh hãi, bèn ra nghị hòa. Lê Lợi chẳng sợ điêu ngoa Thuận tình chấp nhận nghị hòa với Thông.
21. Trần Cao dâng biểu xin phong: Trần Cao dâng biểu xin phong Đưa nhiều cống vật mà mong thuận đò. Nhà Minh biết giả, vẫn cho Tuyên Tông Minh Đế hẹn hò giải binh:
Chỉ cần thả những con tin Bỏ tòa Bố Chính, thôi binh, rút cầu. Có người muốn khỏi họa sau Xúi Lê Lợi giết tránh lâu họa mình.
Bình Định Vương nói chí tình: “Báo ân, báo oán rập rình được chi. Đã hàng còn giết, đức gì Mở con đường sống, ai đi hại người.
Ghê gì ham uống máu tươi Giết người tay trắng, tiếng cười vạn năm!”. Mấy lời nghe có từ tâm Giặc về còn cấp năm trăm chiến thuyền.
Tiễn đưa như thể hàn huyên Từ xưa chẳng vậy, danh truyền hiếm thay! Non sông một bóng cờ bay Trời Nam nước Việt từng ngày sáng trong.
22. Tờ Bình Ngô Đại Cáo: 平 吳 大 誥 Bình Định Vương dẹp giặc xong “Bình Ngô Đại Cáo” mấy dòng giải phân:
”Nhân nghĩa cốt ở yên dân Điếu phạt khử bạo cũng ngần ấy thôi! Nước Việt, văn hiến đi đôi Sơn xuyên, Nam Bắc xa xôi cũng gần.
Từ Triệu, Đinh, Lý đến Trần Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên phân mỗi phần. Cường nhược lúc khó định phân Đời nào cũng có dấu chân anh hào!
Lưu Cung tham quá té nhào Triệu Tiết mộng lớn để vào tử vong. Toa Đô – Hàm Tử vào tròng Bạch Đằng cuộn sóng cuốn dòng Mã Nhi.
Kê Chư vãng cổ còn ghi Rõ ràng chứng cớ quá chi tỏ tường! Vừa rồi, Hồ đã khoa trương Chính sự cuồng loạn, bốn phương chán chường.
Cuồng Minh mượn cớ nhiễu nhương. Gian tà bán nuớc, theo phường lợi vinh. Lửa hung tàn nuớng dân tình Hầm giam con đỏ, bỏ mình vạ vương.
Dối trời, lừa đất khôn lường Hai mươi năm kế kiếm đường hại dân. Càn khôn nát nghĩa bại nhân Núi non thuế má vét gần thớt thưa.
Đào mỏ núi, lam chướng thừa Xuống biển mò ngọc chưa vừa túi tham. Những trông hố bẫy hươu đen Lưới dò chim sả đã quen săn lùng!
Tàn hại cả giống côn trùng Không chồng, không vợ, hãi hùng biết chăng? Chúng há miệng máu, nhe răng Xây nhà đắp đất chẳng rằng: Chán chưa? Tay nào phục dịch cho vừa Bắt người canh cửi, lọc lừa xiết bao!
Dơ thay! Đông Hải máu đào Ác này trúc Khánh Nam nào đủ ghi! Thần nhân phẩn nộ sầu bi Trời kia cũng chẳng thể chi khoan hồng.
Lam Sơn binh dấy đồng lòng Cùng lũ nghịch tặc thề không đội trời. Đau lòng mười mấy năm rồi Nằm gai, nếm mật hạ hồi trở trăn…
Đêm ngày phát giận quên ăn Sách xưa thao lược băn khuăn dưới mành. Cổ, Kim suy xét ngọn ngành Nghiệm ra biết lẽ: Hưng, Thành, Bại, Hư.
”Đồ hồi” mộng mị, cương, nhu Nổi cờ nghĩa lúc quân thù gieo tai. Sao Mai – Tuấn Kiệt chẳng ai Nhân tài như lá thu phai, võ vàng!
Nơi mưu sự thiếu kẻ bàn Đỡ đần văn, võ hiếm hàng trước sau. Cứu dân vẫn lấy làm đầu Con mắt chỉ thấy dầu dầu: Đông Đô.
Người hiền tả, hữu nơi mô Cổ xe vắng bóng trống khô giữa đời! Tự ta bơi giữa biển khơi Cứu người chết đuối một trời tính toan.
Giận hung đồ quyết sống còn Lo nỗi nước cũng mỏi mòn khó khăn. Linh Sơn, lương cạn đói nhăn Thôi Huyện, quân thiếu chỉ bằng bấy nhiêu!
Trời trao khốn khó quá nhiều ”Kiên cường” ta đã lấy điều làm gương. Cờ bay, gậy múa bốn phương Tiệc rượu tướng sĩ một phường cha con.
Yếu chống cường, vững tâm son Địch nhiều, ta ít nhưng còn dạ gan. Muôn đời: Nghĩa thắng hung tàn Lấy chí nhân cản bạo tàn, ác gian.
Bồ Đằng một trận sấm vang Trà Lâm trúc chẻ tro than xa, gần! Quân thanh thế mạnh, khí thần Trần Trí, Sơn Thọ tứ thân điếng hồn.
Lý An, Phương Chính bồn chồn… Tây Kinh quay ngược càn khôn, rút về. Tuyển quân tiến đánh tứ bề Đông Đô ta lại lấy về được ngay!
Ninh Kiều, máu chảy, trôi thây Tụy Động, xác chất dơ đầy vạn năm. Trần Hiệp, chi tặc phúc tâm Lý Lương gian, chết dập bầm, rã thây!
Lũ Vương Thông cạn cách bày Mã Anh hết xảo đường này, kế ma. Trần Trí khiếp vía lạy tha Ta lấy đức phát, chúng đà chịu thua.
Tưởng đâu chúng hết dám đùa Ngờ đâu kiếm cớ mà mua lấy phiền. Chỉ quen đổ vạ, thiệt điên Bày trò nhơ nhuốc, oan khiên một đời.
Nhãi con Tuyên Đức tưởng chơi Đổ dầu vào lửa: Khơi khơi tướng quèn! Đinh Mùi tháng chín: Liễu sang Tháng mười: Mộc Thạnh nghênh ngang tiến vào.
Chỗ hiểm, ta chận xít xao Sau, ta sai tướng đào hào, chận lương. Ngày mười tám, Thăng cùng phương Hai mươi, mất hướng, chết đường Mã Yên.
Ta đường lương đạo triệt liền Lại điều binh giữ những miền tối tăm. Lương Minh bị hãm, hăm lăm Hăm tám, Lý Khánh kế lầm, tự vong.
Lưỡi dao ta sắc, lượn vòng Khiến ngọn giáo giặc lòng bòng khoảng không. Thành vây bốn phía niêm phong Mười lăm, hẹn diệt giặc trong tháng mười.
Binh sĩ khí tựa nai, hươu Bầy tôi đủ mặt dũng mưu, vẹn toàn. Gươm mài, núi đá phải mòn Voi kia khát uống, không còn nước sông!
Trận đầu, kình ngạc nổi phong Trận sau, chim chóc muôn giòng phá banh. Gió to quét sạch lá cành Tổ kiến hổng sụt, đê thành vỡ toanh.
Thôi Tụ vì thế mất danh Hoàng Thúc tự trói để thành bại binh! Lạng Giang tắc nghẽn thây sình. Bình Than máu lính bỏ mình đỏ sông.
Gió mây biến sắc trên không Trời trăng ảm đạm không dòng sáng trong. Binh Vân Nam khiếp, ngã lòng Không phương trốn chạy, ách dòng Lê Hoa!
Trận Cần Trạm, Thăng thua to Mộc Thạnh như thỏ, co giò trốn mau. Đỏ ngầu suối máu Lãnh Câu Đan Xá, thây chất gọi sầu núi cao!
Đầm đìa cỏ nội, máu đào Cứu binh hai mặt té vào hố sâu. Các thành mất chúa, khấu đầu Bỏ dao, cởi áo để hầu được tha!
Tướng giặc chúng đã hàng ta Cọp, Lân đuôi vẫy, lột da, chịu hàng! Thể lòng trời đất lầm than “Thần vũ bất sát”, mở đàng chúng đi.
Nội quan, tham tướng Chính, Kỳ Năm trăm thuyền cấp để đi về Tàu. Giữa khơi hồn lạc, phách rầu Tổng binh, tham chính Thông hầu kém đâu! Dưới thuyền, trên ngựa như nhau Chạy về đến nước, váng đầu, thất kinh!
Có câu: “Úy tử, tham sinh” Chúng đã sợ chết mà xin hiếu hòa. “Toàn quân vi thượng” xê xoa Đất nước thoát họa, xóa nhòa bóng mây!
Ấy là mưu kế sâu dày Cũng là chưa thấy xưa rày, tới nay! Non sông rạng rỡ mặt mày Nước nhà cũng đã thấy ngày được yên!
Đất trời quang đại đến phiên Trời trăng mờ tối đã liền phục sinh! Ngàn năm quang đại thái bình Nhục thiên cổ hết, oan tinh sạch làu!
Tổ tiên, trời đất ơn sâu Ông bà linh hiển cùng nhau hộ trì. Ô hô! Một mảnh nhung y Vẫy vùng chi chí công ghi đại thành.
Một nhà bốn biển sóng xanh Mở hội Vĩnh Thạnh mà thành duy tân. Bố này báo khắp xa, gần Rỉ tai nhau rõ những phần xảy ra!”.
Chương XV NHÀ LÊ 黎 (1428-1188) THỜI KỲ THỐNG NHẤT (1428-1527) I. LÊ THÁI TỔ: (1428-1433) Niên hiệu: Thuận Thiên 順 天 1. Bình Định Vương lên ngôi tôn: Non sông đã hết phong ba Đến phiên Lê Lợi dọn nhà, đổi ngôi. Ngặt vì cớ sự đã rồi Trần Cao, ngôi vị đang ngồi ngự chơi. Trước kia, Lợi muốn hợp thời Lập Trần Cao để trả lời giặc Minh.
Trần Cao nghĩ cũng oan tình Giữa đàng ách đã dính mình nạn tai. Ba chân, bốn cẳng chạy dài Cái ải thuốc độc đợi ngài đã lâu.
Ngẫm mà buồn kiếp thân trâu Ruộng cày đã hết, duyên trâu chẳng còn! Thí Cao, Lợi lấy ngôi son Xưng Lê Thái Tổ chẳng còn vướng chân.
Lừa Minh, Lê Lợi phân vân Kêu rằng “cháu chắt nhà Trần chẳng ai”. Bắt quan, dân viết tờ khai Nhà Minh mới thuận phong ngài tước Vương.
Ba năm lệ cống như thường Đúc người vàng nộp, nhịn nhường trước sau. Vì rằng, quốc thổ gần Tàu Giang sơn lớn nhỏ tranh nhau đã từng.
Chi bằng lễ vật mà dưng Cho Tàu đừng có thăm chừng nước ta. Bên ngoài, dứt việc can qua Bên trong, tưởng thưởng cùng ca thái hoà.
Hàng văn, Nguyễn Trãi phong hầu Hàng Võ, Lê Vấn đứng đầu tướng quân. Mang “Quốc tính” thưởng hiền thần Thay dòng cả thảy xem gần mấy trăm.
Suy ra, kể cũng cười thầm Thay danh, đổi họ, ai ngầm thích đâu!
Quốc Công – Nguyên Hãn công đầu Thái Úy – Văn Xảo, đứng đầu võ văn. Những người trung nghĩa hay chăng Công thần đệ nhất sắp… văng giữa đồng!
“Thượng trí tự“: Thưởng nhất công “Đại trí tự“: Thưởng cho dòng nhị công. “Trí tự“: Tưởng thưởng tam công Học hành, cai trị, cũng đồng… tạm an.
2. Việc học hành: Học hành đã được sửa sang Mở Quốc tử giám cho hàng sĩ nho. Tứ phẩm thi Minh kinh khoa Phật, Lão thi đậu vào tòa sĩ, tăng.
3. Luật lệ: Theo Đường năm tội mà răn Lưu, Xuy, Đồ, Trượng, nặng chăng: Tử hình. Công thần mắc tội, lưu tình Con cái thì được sá hình bởi công.
Già yếu miễn bớt xiềng gông Tội cắp mà nhận cũng đồng giảm cho. Rượu chè, đổ bác, phạt to Đánh trượng hoặc chém cụt giò, chặt chân.
Hình phạt ấy có bất nhân Nhưng đời lắm kẻ lười mần, thích ăn.
4. Việc cai trị: Tân Bình, Thuận Hóa, Nghệ An Hải Tây, Thanh Hóa năm hàng đạo quan. Mỗi đạo, Hành Khiển giữ an Đại xã thì có dân gian trăm người. Trung xã thì có năm mươi Tiểu xã thì chỉ mười người trở lên.
5. Phép quân điền: Thái Tổ định phép “quân điền” Công điền, công thổ chia liền với nhau. Thứ dân với những công hầu Giàu nghèo chưa hẳn thấy đâu bến bờ.
6. Việc binh lính: Mười vạn ở lại nước nhờ Mười lăm vạn nọ trở về ruộng nương. Năm phiên chia lính tỏ tường Phân nhau đi ở mà thường bảo ban.
7. Công thần bị giết: Ngoài yên, trong nẩy nghi gian Lê Thái Tổ lại giết quan đại thần. Có câu: “Điểu tận, cung tàn” Hết thỏ thì mạng chó săn chẳng còn.
Công danh đã chẳng vẹn toàn Một người bị hại, chết oan mấy dòng. Trần Nguyên Hãn tướng Quốc Công Thái Úy Văn Xảo giữ không nổi đầu!
Xưa nay, mấy kẻ hiểu câu: “Công thành, danh thoái” sâu như Tử Phòng? Giúp Lưu Bang dựng nghiệp xong Từ quan ẩn dật mới hòng giữ thân.
Đến phiên Thái Tổ lìa trần Ngôi vua chừng ấy chỉ ngần sáu năm. Công lao đi với lỗi lầm Thọ bốn mươi chín về… thăm cửu truyền!
Sang sông gọi gió đưa thuyền Bờ kia tới được thì nguyền gió đông!
II. LÊ THÁI TÔNG (1434-1442) Niên hiệu: Thiệu Bình 紹 平 – Đăng cơ, Thế tử Nguyên Long Nghị bàn quốc sự qua… ông Tư đồ. Mười một tuổi biết chi mô Phụ chính Lê Sát tha hồ dọc ngang.
Cậy công, trái phép, làm càn Khi Thái Tông lớn, kiếm đàng diệt ngay. Thời này, vua chẳng gặp may Trời gây lũ, hạn, phá bay mùa màng.
Việc thi cử có sửa sang: Năm năm Hương thí, Hội hàng sáu năm. Nhăm Tuất, Tiến sĩ hàn lâm Tạc tên bia đá nở mầm sử xanh.
Tiền và lụa vải thông hành Vải hăm bốn thước cho thành một cây. Sáu mươi đồng – một tiền đây Lụa ba mươi thước – đóng đầy tấm trơn… Tấm vải: Hăm bốn thước hơn Còn giấy một tập tính tròn: Trăm thôi.
Những cải cách ấy nước đôi Chấn chỉnh đánh trống để rồi bỏ xuôi. Nói về vua trẻ ham vui Đắm say tửu sắc mà vùi chí trai!
* Nguyễn Trãi bị hại: Bấy giờ, Nguyễn Trãi – Ức Trai Sống nhàn hạ gởi đức tài Côn Sơn. Ai xui chẳng rõ nguồn cơn Thái Tông lúc duyệt binh còn ghé thăm.
Làm vua chỉ tạo lỗi lầm Luân thường chẳng giữ, phạm nhầm đức nhân. Thị Lộ tài trí muôn phần Mang thân hoa sắc đỡ đần tiên sinh. Can chi, vua ép theo mình Như phường cướp vợ, nhân tình để đâu!
Quá nhiều trăng gió trước sau Đến huyện Gia Định ngã đau, bỏ đời. Tuổi hai mươi, chín năm trời Ăn chơi cho lắm, sớm rời cơ ngơi!
Than rằng: Nguyễn Trãi khơi khơi Triều thần ghen ghét, ghép rơi mất đầu! Tru di ba họ thảm sầu ”Họa vô đơn chí”, cúi đầu, hỡi ôi!
Chữ son chỉ một mà thôi Hai vầng nhật nguyệt sáng soi tấm lòng. Hay cho cái giống “lọt tròng” Thời nào chẳng có muỗi mòng, bọ ve!
Côn Sơn suối nước còn nghe Dòng thơ Người trổ măng tre để đời! Oan khiên, Người chẳng một lời: Làm con người có mấy thời rạng danh?
Sống làm chiếc lá mong manh Chết làm trùn ủi đất xanh cây đời. Chữ Nhân – Nghĩa với thế thời Ai người chính trực đổi đời thế gian!
III. LÊ NHÂN TÔNG (1443-1459) Niên hiệu: Diên Ninh 筵 寧 Bang Cơ lên nắm giang san Vừa mới hai tuổi được can chuyện gì? Lê Khả, Nguyễn Xí tức thì Để Hoàng thái hậu trị vì quốc gia.
Trong ngoài lại nổi can qua: Chiêm Thành đánh phá Hóa Châu bất ngờ. Lê Khả phụng chỉ mang cờ Đi cùng Lê Phụ trói về Bí Cai.
Rồi lập Mã Kha Qui Lai Cháu Bồ Đề cũ lên ngai chúa Chàm. Đất Bồn Man phía Đông Nam Xin hàng, lệ thuộc đổi làm một châu.
Dương thái hậu, đã từ lâu Nghe lời xàm tấu chẳng cầu giả chân. Khắc Phục, Lê Khả, Lê Ngân… Can ngăn chẳng đặng, dần dần chết oan!
Nhân Tông thì vẫn vua con Nhưng vừa thân chính, tính toan mọi phần. Làm tròn cái việc “truy phong” Cấp ruộng cho cháu con dòng có công.
Phù Tiên vâng lệnh Nhân Tông Làm bộ Quốc sử vinh phong nước nhà. Tiếc thay! Vua trẻ hiền hòa Vì người anh phản, mới mà mạng vong!
Nghi Dân cùng bọn Phạm Đồn Phan Ban, Lê Đắc Ninh đồng Trần Lăng. Giết em vì bởi thù hằn Anh em ruột thịt, chẳng bằng Tiền Ngô!
Mười bảy năm với sóng xô Mất năm mười chín, xuống mồ tới phiên. Nghi Dân soán cướp vương quyền Vừa chừng tám tháng đầu liền… bị rơi.
Chẳng qua quá ác, nghe lời Những phường xu nịnh mới thời diệt thân. Năm Canh Thìn, những đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt… giết ngần ấy gian.
Triều cương chém giết phủ phàng Tạm thời chấm dứt, mở màn thịnh Lê.
IV. LÊ THÁNH TÔNG (1460-1497) Niên hiệu: Quang Thuận 光 順 . Triều thần đồng ý rước về Bình Nguyên Vương thuở bơ vơ lạc dòng. Tư Thành, con út Thái Tông Niên hiệu Quang Thuận, tinh thông, trí hào.
(Mẹ là Ngô Thị Ngọc Dao Thị Lộ – Nguyễn Trãi năm nào tái sanh. Bà mang Hạo tức Tư Thành Nào hay Phi tử Thị Anh hại mình).
Tư Thành thuở nhỏ thâm tình Thờ mẹ hiếu thảo, bẩm sinh đã hiền. Công thần bị giết, tổ tiên Cho cấp đất ruộng quan điền phụng riêng.
Hương hồn Nguyễn Trãi oan khiên Hai mươi năm đã đến phiên sạch làu. Ức Trai tâm thượng Phục Hầu Sao Khuê sáng xóa oán sầu vạn sau.
1. Việc cai trị: Luật thời Trần giữ như nhau Trên thì Tướng quốc, lục đầu Thượng thư. Đặt thêm Lục tự thảo từ Quang, Hồng, Nhị – Thái, Bộ như Tự thừa.
Lễ nghi, quan chế giống xưa Quan hưu trí sĩ tuổi vừa sáu lăm. Nước mười hai đạo thay năm Quan Tòa Thừa, Hiến, Đô chăm việc hình.
Các đạo có nhiễu sự sinh Giám sát ngự sử tùy hình xử ngay. Đất Chiêm đã lấy trong tay Quảng Nam chia lại xứ này mười ba.
2. Việc thuế lệ: Ruộng điền ba hạng đóng qua Thuế đinh đồng hạng, nộp ra tám tiền. Một kỳ sổ hộ: Sáu niên Kê khai hộ khẩu nộp quan huyện nhà.
3.Việc canh nông: Khuyến nông cần phải lo xa Ruộng hoang, Hộ Bộ liệu mà tấu thiên. Bốn hai cơ sở đồn điền Đặt quan khai khẩn khỏi phiền khổ dân.
4. Nhà Tế sinh: Đau yếu, dịch tể định phân Phát thuốc chẩn bệnh là phần Tế sinh.
5. Việc sửa phong tục: Lễ nghi, tôn giáo loạn hình Lắm kẻ trái lẽ thường tình thế gian. Chùa chiền, hôn sự, lễ tang Cấm xây cất, hát hội hàng với nhau.
Thánh Tông trong mấy năm đầu Đã thay đổi tận gốc râu của người. Cai trị, thuế má, tế trời Canh nông, phong tục, hai mươi bốn điều:
Phép tắc, lễ phép, thương yêu Vợ chồng cần kiệm, làm nhiều hạnh nhân. Anh em hòa thuận xa gần Đàn bà ở góa muôn phần xót thương.
Chính chuyên chẳng thể dối lường Không nuôi trai trẻ kiếm đường loạn dâm. Sĩ phu giữ hạnh, tránh lầm Điển lại sổ sách tránh nhầm lận gian.
Giúp nhau dân với viên quan Thương gia không được quyền bàn giá cao. Hôn giá tế tự dạt dào Cúng tế, du hí cấm vào nhiễu dâm.
Hàng quán, điếm trọ cấm thâm Cùng bến, trai gái không nằm tắm chung. Chọn già đức giảng lễ cùng Ai xúi kiện tụng, vào khung tội hình.
Vương, Công, Đại nếu tham sinh Dân mà cáo trạng, quan hình xử ngay. Thừa chính, Hiếu sát đó đây Kiểm tra huyện, phủ bề dày tiết liêm.
Tòa Thừa, toà Hiếu lập nghiêm Mường, Mán không được làm điềm cưỡng thê.
6. Địa đồ nước Nam: Sau điều giáo huấn mọi bề Thổ quan vẽ địa đồ về nước Nam.
7. Đại Việt sử ký: Hai bản, Ngô Sĩ Liên làm Năm quyển chép việc Hồng Bàng, Sứ quân. Sử xanh chẳng thể lưng chừng Phần sau, mười quyển chép từng Đinh – Lê.
8. Việc văn học: Thánh Tôn vốn thích làm thơ “Tao đàn nguyên súy” chuyên về xướng ngâm. Để đời “Hồng Đức quốc âm” “Thiên Nam dư tập” là mầm luật Lê.
9. Việc võ bị: Luyện quân lo thủ mọi bề Cho thi võ nghệ, phòng hờ xâm lăng.
10. Đánh Chiêm Thành (1470): Chiêm Thành lại cứ lăng nhăng Cầu Minh xin viện, tưởng rằng sách hay. Thánh Tông trừng trị thẳng tay Phá Đồ Bàn bắt Toàn ngay, giặc tàn.
Tướng Chiêm chịu cống, xin hàng Trà Toại chạy tới Minh van với cầu. Thánh Tông biết được mưu sâu Sai Lê Niệm bắt, giải đầu tới kinh.
11. Đánh Lão Qua (1479): Chiêm Thành tạm dứt chiến chinh Lào, Mường phải chịu cúi mình, khiếp danh!
12. Đánh Bồn Man: Bồn Man làm phản đã đành Xui người Lào đánh để giành đất ta. Đuổi nhau đến tận Kim Sa Thánh Tông toàn thắng, Lão Qua đã bình.
Nhà vua ngự giá thân chinh Đánh Bồn Man (trước đã xin quy hòa). Nay vì có giặc Lão Qua Cầm Công nổi dậy, mà ra sự tình. Lê Niệm vâng lệnh cầm binh Cầm Công thua chết, Man xin chịu hàng.
13. Việc giao thiệp với Tàu: Thánh Tông trị nước giỏi giang Luôn ngừa phương Bắc ngó ngàng nước ta. Nhắc quân thần biết phòng xa Giữ gìn tất đất ông cha để đời.
Anh minh gương sáng rạng ngời Quang Thuận – Hồng Đức ai thời sánh qua! Băm tám năm gánh sơn hà Thọ năm mươi sáu, ngài đà giá băng.
V. LÊ HIẾN TÔNG (1497-1504) Niên hiệu: Cảnh Thống 景 統 Thế ngôi cha, thái tử Tăng Lấy hiệu Cảnh Thống, hiệu rằng Hiến Tông. Vua hiền, đôn hậu, hạnh thông Thay trời trị nước một lòng từ bi. Đời ngài không giặc giã gì Bảy năm ngôi vị rồi thì quy tiên!
VI. LÊ TÚC TÔNG (1504) Niên hiệu: Thái Trinh 泰貞 VÀ LÊ UY MỤC 黎 威 穆 (1505-1509): Túc Tông con thứ nắm quyền Lên ngôi sáu tháng, rũ phiền tuổi xanh!
Triều thần liền chọn người anh Tức là Uy Mục nổi danh hung tàn. Lên ngôi đã giết họ hàng Sát Hoàng thái hậu với quan cựu thần.
Làm vua nổi tiếng bất nhân Đắm say tửu sắc, chẳng phân chính, tà! Lắm đường phản trắc, yêu ma Nên sứ Tàu mới gọi là: ”Qủy Vương”!
Thường dùng “ngoại thích” dối lường Chọn người sức mạnh chẳng tường nghĩa nhân. Họ Mạc đánh cá lọt chân Đô Chỉ huy sứ về phần Đặng Dung.
Quan tôn thất, quyết chẳng dùng Công thần chẳng dụng, anh hùng chán hung! Đuổi người chớ đuổi đến cùng Chó khôn lúc khốn, điên khùng máu tanh.
Nói về họ Giản tên Oanh Tu Công, Uy Mục ngọn ngành một tông. Dòng con vua cháu Thánh Tông Bị giam, đút lót mở còng thoát thân. Uy Mục đến lúc mãn phần Mà người sát hại, anh gần: Tu Công.
VII. LÊ TƯƠNG DỰC (1510-1516) Niên hiệu: Hồng Thuận 烘 順 Giết anh, con chú bác xong Tu Công thế chỗ, đi tong ván bài. Tương Dực xa xỉ, bất tài Điện trăm nóc, Cửu Trùng đài dựng chơi!
Khốn thay mười mấy năm trời Bạc tiền hời hợt, thân người chẳng ra. Thông dâm mỹ nữ triều cha Sứ Minh sang thấy, kêu là “tướng heo”. Làm vua chẳng mấy người theo Sơn hà nổi loạn, người nghèo khắp nơi.
1. Việc thuế má: Dân gian, thuế vét… đáy vơi Kho vua, vàng bạc của trời… thặng dư!
2. Đại Việt thông giám: Vũ Quỳnh, binh Bộ thượng thư Viết Sử Đại Việt giống như trước dùng. Thêm mười một quyển bổ sung Tổng luận sử bộ Lê Trung đã làm.
3. Sự biến loạn: Hoang chơi, vua quá là ham Bỏ lơ việc nước không cam, chẳng màng. Đắc Bằng, Trung, Nguyễn Văn Lang Người già, mất, kẻ từ quan chức về.
Sanh ra nội loạn tứ bề Duy Nhạc, Văn Tổng đánh về Đông – Gia. Nghệ An, Văn Triệt phá ra Sơn Tây đã có loạn là Trần Tuân.
Phùng Chương, Tam Đảo một khung Ninh, Hưng, Hy chiếm mấy vùng phá chơi. Trần Cao xưng có “tướng trời” Có “Thiên tử khí” chỉ lời ngụy minh.
Cho mình “Đế Thích giáng sinh” Xua binh đánh phá, còn mình cướp ngôi. Tương Dực khí số tới rồi Nửa đêm bị giết, ngôi ngồi tám năm.
VIII. LÊ CHIÊU TÔNG Niên hiệu: Quang Thiệu 光 紹 VÀ LÊ CUNG HOÀNG Niên hiệu: Thống Nguyên 統 元 (1516-1527) Triều đình hội ý bốc thăm Nhằm Quang Trị mới vừa tầm tám thôi. Phùng Mại muốn đổi cho rồi: Cẩm vương con trẻ lên ngôi nối quyền.
Bọn Trịnh Duy Sản thấy phiền Đem Phùng Mại chém ngang nhiên giữa triều. Lên ngôi, ngày chẳng bấy nhiêu Quang Trị bị giết là điều ác nhân.
Triều đình chính sự bất phân Hoàng Dụ nhân thế kiếm phần phủ vây. Bọn Trịnh Duy Sản nhanh tay Đem con của Cẩm Vương đây, lập liền. Mười bốn tuổi có cơ duyên Chiêu Tông, cháu của vua hiền Thánh Tông.
Thương rằng Quang Trị chết non Giết tươi Phùng Mại, hai oan oán hồn. Lê Khắc Xương ấy mà khôn Chối từ chức Đế mới tồn mạng cao.
1. Giặc Trần Cao quấy nhiễu ở Đông Đô: Đông Đô nhiễu loạn Trần Cao Ngõ hầu chiếm chỗ, lật nhào họ Lê. Hai đàng chém giết chán chê Trần Cao bí thế, rút về Lạng Nguyên.
Bọn Trịnh Duy Sản chuyên quyền Khinh địch chuốc lấy ưu phiền, vạ vương.
Quân Trần Chân chận bốn phương Trần Cao bị đánh hết đường hảo huyên. Nhường con, Cao mới trao quyền Chán chường mà cắt tóc liền tu tiên!
2. Quan trong triều làm loạn: Triều ca lại loạn đến phiên Chiêu Tông, trẻ thiếu tôi hiền bảo ban. Triều thần bè phái hai đàng Hai họ Trịnh – Nguyễn Ngang tàng đánh nhau.
Trần Chân quyền bính tóm thâu Vua nghe sàm tấu mới hầu giết đi! Oán vua trẻ sớm bất nghì Quân Trần Chân phản cũng vì chủ oan!
Hai bên đánh quyết sống còn Đăng Dung, vua phải chịu lòn, biết sao!
3. Mạc Đăng Dung chuyên quyền: Mạc Đăng Dung ở Đông Cao Xem ra cũng chẳng anh hào thứ chi! Cháu bảy đời Mạc Đỉnh Chi. Lên quan ngự thí, chẳng thi bao giờ.
Sức mạnh đánh cá chẳng chê Vua nào thấy cũng vỗ về, tấn phong. Họ Mạc vì cậy có công: Dẹp xong Trịnh – Nguyễn, dứt dòng phản vương.
Bấy giờ quyền thế mọi phương Ra vào thấy cũng đường đường một vương. Giết trung thần chẳng xót thương Xưng vương, xưng tướng, cũng phường soán ngôi.
Chiêu Tông hối hận đã rồi Nửa đêm trốn chạy, bỏ ngôi, lấy người. Đăng Dung quyền thế đặng mười Lập vua nhưng bủa lưới trời cung son.
Thống Nguyên tước hiệu Cung Hoàng Phan Điền lấn lướt chỉ toàn xúi thôi! Khiến cho “lửa bỏng, hỏng xôi” Chiêu Tông mắc lưỡi tôi đòi Trịnh Tuy.
Đặng Dung dụ kẻ vô nghì Chiêu Tông bị bắt, tức thì, giết đi! Mười một năm ở ngôi vì Thọ hăm sáu tuổi, từ ly não lòng!
Cung Hoàng, Thái hậu đồng thông Hai năm lao khổ chết trong thét Gào. Họ Mạc làm chuyện soán trào Cướp ngôi Lê để ra bao tiếng đời!
Triều thần máu chảy, đầu rơi Nhiều người không phục tìm nơi ẩn mình. Tội thay muôn vạn sinh linh Thay triều đổi chúa chẳng tình nghĩa chi.
Xót nhà Lê chẳng bỏ đi: Vũ Duệ, Ngô Hoán, Mậu, Huy, Duy Tường. Bá Ký, Kim Bảng, Vô Cương Tuấn Mậu, Bạt với Tự Cường, Hữu Cương.
Triều Lê khoa bảng đường đường Biết điều sỉ nhục, lại tường nghĩa nhân. Nhổ vào mặt kẻ bất nhân Trên ngôi soán chúa, dưới sân lấn quyền.
Thị phi tiếng mãi còn nguyền Lam Sơn tiên đế, ngôi truyền tới đâu! Tiếng thơm nghĩa khí về sau Chết vinh hơn sống nhục câu “sĩ hiền”!
Mười đời Lê cũng đã truyền Trăm năm: Thái Tổ đến phiên Cung Hoàng. Ba đời có tiếng tốt chung Thái Tổ với Thánh Tông cùng Hiến Tông.
Ba vua giữ vững non sông Trưởng thành nên chuyện tư công rõ ràng. Vua non kế nghiệp bạo tàn Hoang dâm, ngu xuẩn, dã tràng nghiệp cha!
Nhà Lê thời thế đã qua Tiếc công vua trước, xót xa kiếp người! Nghịch thời, nhà Mạc cướp ngôi Làm vua cũng chẳng có ngồi được lâu!
Chuyên quyền họ Trịnh về sau Chỉ ở ngôi “Chúa” chớ hầu ngôi “Vua“! Đời nào cũng mãi hơn thua Cho người chép sử từng mùa… hát rong!
Quyển IV TỰ CHỦ THỜI ĐẠI (1528-1802) (Thời kỳ Nam Bắc phân tranh) |
[post_connector_show_children slug=”vi%e1%bb%87t-nam-s%e1%bb%ad-ca-l%e1%bb%a5c-b%c3%a1t-s%e1%bb%ad” parent=”2185″ link=”true” excerpt=”true”]